Quá trình phát triển Quân đội Quốc gia Việt Nam

Cuộc diễn hành của một tiểu đoàn Quân đội Quốc gia Việt Nam. Ảnh chụp tại Hồ Gươm ngày 14 tháng 7 năm 1951.

Quân số

Ban đầu, người Pháp từ chối hỗ trợ thành lập Quân đội Quốc gia Việt Nam. Khi đã chấp nhận hỗ trợ, họ không chịu trang bị pháo binh, thiết giáp và không quân cho Quân đội Quốc gia Việt Nam. Vì vậy Quân đội Quốc gia Việt Nam chỉ toàn bộ binh hạng nhẹ.[3]

Trong thời gian tồn tại, quân đội này phát triển nhanh nhưng cũng gặp rất nhiều khó khăn. Vào tháng 5 năm 1951, Quân đội Quốc gia Việt Nam có quân số chưa đầy 40.000. Tháng 6, chính phủ Trần Văn Hữu phát động "tổng động viên" để lấy thêm 60.000 người cho đợt huấn luyện 2 tháng. Đến Tháng Chạp năm 1951 thì quân số đạt 128.000 người.[8]

Tính đến năm 1952, Quân đội Quốc gia có 135.000 người được tổ chức thành 36 tiểu đoàn bộ binh, 3 đội thiết giáp trinh sát, 2 đại đội pháo binh.[8] Tính đến mùa đông năm 1953 Quân đội Quốc gia có 200.000 quân chính quy (trong đó có 50.000 quân dự bị) và 78.000 địa phương quân. Vào Tháng Chạp năm 1954 thì quân số trong Quân đội Quốc gia Việt Nam tổng cộng là 230.000 người, trong đó có 165.000 quân chính quy và 65.000 quân địa phương.[4] Số tiền người Pháp bỏ ra để viện trợ cho hoạt động của quân đội này là: 524 tỉ francs năm 1952, 585 tỉ năm 1953, 575 tỉ năm 1954. Viện trợ quân sự của Pháp chiếm 60% ngân sách quốc phòng của Quốc gia Việt Nam.

Sĩ quan

Sĩ quan Pháp trao huân chương cho binh lính quân đội Quốc gia Việt Nam

Ngày 1 tháng 12 năm 1948. chính phủ Quốc gia Việt Nam lập ra Trường Sĩ quan Việt Nam ở Đập Đá, Huế để đào tạo nhân sự chỉ huy cho Quân đội Quốc gia Việt Nam. Hai năm sau, trường sở được chuyển lên Đà Lạt với tên mới là Trường Võ bị Liên quân Đà Lạt có 200 học sinh, khai giảng ngày 5 tháng 11 năm 1950.[8]

Hai Trường Sĩ quan Trừ bị (Écoles d'officiers de Réserve) Thủ Đức và Nam Định được thành lập ngày 11/5/1950 và chính thức hoạt động ngày 1/10/1951, có trách nhiệm đào tạo sĩ quan cho Quân đội Quốc gia Việt Nam. Số lượng học sinh của hai trường là 600.[8] Số sĩ quan đào tạo được trong giai đoạn 1951 - 1954 của hai trường này là:

  • Trường sĩ quan Trừ bị Thủ Đức: 5.368 sĩ quan
  • Trường sĩ quan Trừ bị Nam Định: 255 sĩ quan (trường này chỉ mở một khóa duy nhất từ 1/10/1951 đến 1/6/1952)

Tổng số sĩ quan hai trường đào tạo được trong giai đoạn 1951 - 1954 là 5.623 người. Sau khi tốt nghiệp, các sĩ quan được phong hàm Thiếu úy.[9] Trường Sĩ quan Địa phương ở Huế, Sài Gòn, và Hà Nội với 300 học sinh.[8]

Đối với nhân sự chỉ huy thì Tháng 1 năm 1952, chính phủ đã phải giảm thời gian huấn luyện sĩ quan từ 12 tháng xuống 8 tháng để đào tạo kịp sĩ quan. Trong thời gian này Quân đội Quốc gia Việt Nam vẫn còn thiếu sĩ quan cao cấp: chưa có Bộ Quốc phòng và sĩ quan cấp tướng.

Tướng lĩnh

Trước khi Quân đội Quốc gia Việt Nam được thành lập, một số chỉ huy cao cấp của lực lượng phụ lực quân cũng mang hàm cấp tướng, chỉ có giá trị danh nghĩa nội bộ. Mãi đầu năm 1952, Đại tá Nguyễn Văn Hinh, Chánh võ phòng Quốc trưởng Bảo Đại được phong quân hàm Thiếu tướng Quân đội Quốc gia Việt Nam và được bổ nhiệm vào Tổng tham mưu trưởng của Bộ Tổng tham mưu Quân đội Quốc gia Việt Nam mới được thành lập[10]. Ông chính là tướng lĩnh chính thức đầu tiên của Quân đội Quốc gia Việt Nam.

TTHọ tênThời gian sốngCấp bậcGhi chú
1Nguyễn Văn Hinh1915-2004Thiếu tướng (1952)
Trung tướng (1953)
Tổng tham mưu trưởng Quân đội Quốc gia Việt Nam
Tướng lĩnh đầu tiên của Quốc gia Việt Nam
2Nguyễn Văn Vỹ1916-1981Thiếu tướng (1954)Tổng tham mưu trưởng Quân đội Quốc gia Việt Nam

Biên chế

Biên chế chính thức cao nhất của Quân đội Quốc gia Việt Nam là cấp tiểu đoàn. Từ năm 1949, Bộ Quốc phòng Quốc gia Việt Nam đã cho thành lập 4 tiểu đoàn bộ binh. Các tiểu đoàn này mang phiên hiệu là Tiểu đoàn Việt Nam (bataillon du Vietnam - BVN), được tổ chức và trang bị giống như một tiểu đoàn bộ binh của Pháp, về lý thuyết có 829 quân nhân, gồm 23 sĩ quan. Các tiểu đoàn này được chuyển đổi từ các tiểu đoàn bộ binh với thành phần là các binh sĩ người Việt trong quân đội Pháp. Từ năm 1949 đến 1951, có cả thảy 24 BVN được thành lập, đánh số từ 1 đến 27 (không có các phiên hiệu số 9, 22 và 26).

Thời gian đầu, toàn bộ cấp chỉ huy của các BVN đều là các sĩ quan Pháp; về sau mới dần được chuyển sang cho các sĩ quan người Việt. Tuy nhiên, do chiến sự gia tăng và áp lực của người Mỹ về yêu cầu tăng nhanh nhân sự người Việt, từ năm 1953, đã có kế hoạch xây dựng 54 tiểu đoàn khinh quân (bataillon léger) nhằm thay thế quân Pháp trong công tác bình định lãnh thổ. Toàn bộ nhân sự các tiểu đoàn khinh quân đều là người Việt, với thành phần sĩ quan tốt nghiệp các khóa sĩ quan trừ bị hoặc chuyển từ các BVN sang. Các với các BVN được trang bị tiêu chuẩn để tác chiến cơ động chủ lực, các tiểu đoàn khinh quân trang bị nhẹ, được sử dụng trong những vùng đồng bằng, chủ yếu trong công tác bình định.

Địa bàn tác chiến

Về mặt chiến thuật, Việt Nam được chia thành bốn quân khu:[4]

  1. Quân khu 1: Nam phần
  2. Quân khu 2: Trung phần
  3. Quân khu 3: Bắc phần
  4. Quân khu 4: Cao nguyên Trung Phần (Tây Nguyên).

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Quân đội Quốc gia Việt Nam http://www.buttondepress.com/secretstuff/ttu2006/r... http://www.danchimviet.com/archives/9788 http://www.mekongrepublic.com/vietnam/vn_find.asp http://www.ecpad.fr/ecpa/PagesDyn/result.asp?dossi... http://indochine54.free.fr/cefeo/anv.html http://vantuyen.net/index.php?view=story&subjectid... http://www.vantuyen.net/index.php?view=story&subje... http://www.vantuyen.net/index.php?view=story&subje... http://vov.vn/blog/chinh-nghia-khong-thuoc-ve-che-... https://web.archive.org/web/20090326145935/http://...